Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Tào Phi
cầm đuốc chơi đêm 扲𤒘制店
Thng dịch cụm bỉnh chúc dạ du 秉燭夜遊, Từ Nguyên (2000: 2103) chú nghĩa là: cập thời hành lạc (gặp thời vui chơi). Cổ thi thập cửu thủ đời Hán có đoạn: “sống chẳng qua trăm tuổi, thường ôm lo ngàn đời. Ngày ngắn đêm dài thế, sao chẳng cầm đuốc chơi?” (生年不滿百,常懷千歲憂。晝短苦夜短,何不秉燭遊? sinh niên bất mãn bách, thường hoài thiên tuế ưu. Trú đoản khổ dạ trường, hà bất bỉnh chúc du). Nguỵ Văn Đế 魏文帝 (Tào Phi) đời Tam Quốc có câu: “Tuổi trẻ thực nên nỗ lực, năm tháng qua đi, sao có thể kéo lại? người xưa cầm đuốc chơi đêm, là vì vậy.” (少壯真當努力,年一過往,何可攀援?古人思秉燭夜游,良有以也). Vậy “cầm đuốc chơi đêm” không hẳn chỉ có nghĩa là “hành lạc đúng thời”, mà còn có cả nghĩa khuyến cáo người ta phải cố gắng tranh thủ lúc đang còn trẻ khoẻ để ra sức làm việc. [MQL 2001: 1094]. Cầm đuốc chơi đêm, này khách nói, tiếng chuông chưa dộng ắt còn xuân. (Vãn xuân 195.7)‖ (Tích cảnh 204.4, 205.1, 200.3). Ss ai ơi chơi lấy kẻo già, măng mọc có lứa người ta có thì. Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già sòng sọc nó thì theo sau. cd đây là một lối quan niệm hiện sinh thời cổ.
ngăn 限
◎ Nôm: 垠 AHV: hạn. Sách Thuyết Văn ghi: “Hạn là ngăn trở vậy.” (限,阻也 hạn trở dã). Tào Phi trong bài Yên ca hành có câu: “ngưu lang chức nữ nhớ nhau xa, riêng lỗi chi đâu chặn nẻo bờ?” (牵牛織女遥相望,爾獨何辜限河梁? khiên ngưu chức nữ dao tương vọng, nhĩ độc hà cô hạn hà lương). Chữ “hạn” có thanh phù là “cấn” 艮. Các thuỷ âm k- h- ng- là có mối quan hệ. Ví dụ: hàm - cằm - ngàm [xem TT Dương 2011b]. Cũng vậy, có cặp hạn - ngăn (với nghĩa: chặn), cặp hạn - ngần (với nghĩa: giới hạn).
đgt. chặn, trong ngăn trở. Vườn quạnh dầu chim kêu hót, cõi trần có trúc dừng ngăn. (Tự thán 110.6).
nấu 𤒛
đgt. đun cho chín. Than lửa hoài chưng thương vật nấu, [củi] thiêu tiếng khóc cảm thần linh. (Bảo kính 151.5), bài này nhắc đến điển Tào Thực (192-232) làm thơ ngăn anh trai Tào Phi (Nguỵ Văn Đế) định giết hại mình. Vì như thế là làm việc “Nấu đậu bằng cành đậu, đậu khóc than trong nồi: ‘vốn sinh cùng một cội, nấu nhau nhanh quá đỗi’.” (煮豆燃豆箕, 豆在釜中泣。 本是同根生, 相煎何太急 chử đậu nhiên đậu cơ, đậu tại phủ trung khấp: ‘bản thị đồng căn sinh, tương tiên hà thái cấp’), sau trỏ việc anh em giết hại nhau. Cho nên bài thơ mở đầu bằng câu: “ai trách hiềm cây lại trách mình”.